George Soros, một trong những tỷ phú nổi tiếng bậc nhất thế giới đang có mặt tại Việt Nam. Trong lĩnh vực tài chính, ông đã trở thành huyền thoại. “Khi mọi người đi đường bên tay phải, ông lặng lẽ tách khỏi mọi người để đi bên tay trái và rồi bất chợt mọi người nhận ra mình đang đi ở nước Anh” (nơi các phương tiện đi bên tay trái mới đúng luật). Đó là lời nhận xét mà tờ The Wall Street Journal giành cho nhà đầu tư vĩ đại bậc nhất thế giới George Soros.

Từ 5000 USD đến 7,2 tỷ USD

George Soros là người gốc Do Thái. Ông sinh năm 1930 ra tại Hungary. Có thể nói ông sinh ra vào thời điểm khó khăn nhất mà những người gốc Do Thái phải trải qua. Thế chiến II bùng nổ, những người gốc Do Thái bị săn đuổi dữ dội, bị thiêu rụi trong những lò thiêu người.

May mắn sống sót nhưng sau khi Thế chiến chấm dứt, kinh tế Hungary tan hoang. George Soros đã một thân một mình tìm đường di cư sang London - Anh năm1947. Tại thủ đô hoa lệ London, ông xin làm bồi bàn ở quán ăn Quaglino. Thời gian rảnh rỗi ông làm thêm nghề thu hoạch táo và sơn nhà thuê.

Tiền dành dụm sau những năm tháng khổ cực, George Soros đem tất cả để ghi danh vào Học viện kinh tế London. Có thể nói đây là thương vụ đầu tư đáng kể nhất của Soros bởi sau đó ông nổi tiếng không phải với vai trò của một nhà đầu tư mà là một nhà đầu cơ đầy nhạy cảm và quyết đoán.

Để có thể trang trải cuộc sống sinh viên, ông phải gác đêm ở một ga tàu hỏa sau giờ học. Tuy nhiên những nỗ lực của ông đã được đền đáp, Soros tốt nghiệp trường Kinh doanh London vào năm 1952.

Sau khi tốt nghiệp, George Soros làm nhân viên tại Công ty Singer & Friedlander. Công việc khá buồn tẻ và khi biết có một hãng môi giới chứng khoán có trụ sở tại thành phố New York đang khuyết một chân thử việc, ông lập tức chuyển đến Mỹ.

Tại đây, với 5.000 USD khởi nghiệp, ngày nay George Soros đã có tổng tài sản 7,2 tỷ USD, là người giàu thứ 24 trên thế giới.

Một trong những yếu tố đem lại thành công cho George Soros đó là khi chuyển đến sinh sống ở Mỹ, ông là người am hiểu rất rõ thị trường châu Âu trong khi những nhà đầu tư Mỹ thì hoàn toàn mù mịt thông tin trước thị trường đầy tiềm năng này.


Sau khi làm môi giới ở Wall Street, ông khuyên hai thân chủ của mình mua thật nhiều cổ phiếu hãng bảo hiểu Allianz bởi theo ông giá cổ phiếu của công ty này đang thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế.

Ông cũng thuyết phục Ban giám đốc của Allianz rằng giá của Allianz đáng nhẽ phải lớn hơn nhiều nếu công ty này biết quảng bá hình ảnh thương hiệu nhiều hơn. Quả nhiên sau đó cổ phiếu của Alllianz tăng vọt. Thương vụ đầu tiên của Soros thành công mỹ mãn.

Những chiến thắng liên tiếp khiến Soros trở nên nổi tiếng hơn. Cùng với người đồng sự là Jim Rogers, ông lập ra Quỹ Soros Quantum Fund. Lượng vốn ban đầu của 2 người là 4 triệu USD nhưng sau đó quỹ đã có lúc đạt tới tổng giá trị 12 tỷ USD.

Sau khi sát nhập Soros Quantum Fund với Quantum Emerging Growth Fund và đổi tên thành Quantum Endowment Fund, Soros nắm giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị và Tổng giám đốc của Quỹ.

Một trong những bí quyết thành công của Soros đó chính là sự nghiêm túc trong công việc. Là một trong những nhân vật quyền lực và giàu có bậc nhất trong thế giới đầu tư nhưng Soros vẫn làm việc cật lực và miệt mài như những ngày tháng xa xưa khi ông đứng bồi bàn trong nhà hàng ở London. Những người cộng sự nói ông chỉ chủ 2 giờ mỗi đêm.

Ông miệt mài thu thập các thông tin, tỉ mỉ phân tích, xét đoán thị trường rồi ra quyết định mua bán. Quỹ Quantum Endowment Fund luôn được coi là một trong những quỹ đầu tư thành công và uy tín số một. Đó cũng là quỹ đầu tư hùng mạnh bậc nhất trên thế giới hiện nay.

Nhà đầu cơ số 1


Nếu ai đó ghét từ “đầu cơ” thì George Soros được coi là một trong những nhà đầu cơ quyền lực và thành công bậc nhất. Một trong những thương vụ nổi tiếng của Soros là vụ đầu cơ vào đồng bảng Anh.

Năm 1992, sau khi nhận định về tiên đoán về sự biến chuyển của thị trường tiền tệ thế giới, Sorros đã dùng toàn bộ gia sản và thậm chí còn vay hàng tỷ Bảng Anh đem mua đồng Mac Đức. Chỉ sau đó 1 tuần, đồng bảng Anh rớt giá thảm hại do không đủ điều kiện gia nhập đồng Euro. 

Khi đó ông đổi tiền Mac Đức về Bảng Anh rồi trả nợ, số tiền thu lợi được từ thương vụ để đời này của Soros là 1 tỷ dollar. Sau vụ việc này người ta đặt cho Soros danh hiệu: “Kẻ khuynh đảo giá trị đồng tiền”.

Sau những thương vụ “buôn tiền” thành công của mình, dường như nhận định trên càng trở nên xác đáng khi hiện nay đứng sau Soros là cả phố Wall, thị trường chứng khoán London và hàng loạt những tổ chức tài chính khác sẵn sàng nhắm mắt đầu tư theo Soros bởi uy tín và sức ảnh hưởng của ông.

Có thể nói quan điểm đầu tư của Soros hoàn toàn trái ngược với cây đại thụ đầu tư khác là Warren Buffet. Nếu như Buffet nổi tiếng với hai nguyên tắc “1.Không để mất tiền; 2.Không quên nguyên tắc 1” thì Soros sẵn sáng mạo hiểm. Chính bởi sự mạo hiểm đó mà Soros đã nhiều lần chịu những tổn thất tài chính không nhỏ.

Tháng 10/1987, khi mọi người nghi ngại trước sự tăng trưởng bong bóng cả thị trường chứng khoán Mỹ thì George Soros vẫn đẩy mạnh đầu tư. Và sau đó sự kiện “Ngày thứ hai đen tối” nổ ra. Chỉ số Dow Jones đã giảm kỷ lục 508 điểm, tức 22,61% chỉ trong một ngày. Sự kiện đó khiến George Soros cũng bị thiệt hại 300 triệu USD.

Thương vụ sau còn đau đớn hơn nhiều. Năm 1999, Soros tiên đoán những công ty Công nghệ thông tin sẽ suy sụp và bán toàn bộ cổ phiếu của những công ty này ra công chúng.

Tuy nhiên thị trường Công nghệ thông tin vẫn làm ăn phát đạt và giá cổ phiếu vẫn tăng. Soros chịu tổn thất 700 triệu USD do bán sớm cổ phiếu. Sau đó nghĩ rằng mình sai lầm, ông bỏ tiền ra mua lại những cổ phiếu Công nghệ thông tin với mức giá cao mà không biết rằng mình đang phạm sai lầm kế tiếp.

Năm 2000, chỉ số chứng khoán công nghệ NASDAQ cuối cùng đã rớt thê thảm kéo theo gần 3 tỷ USD tiền đầu tư của George Soros.

Sau thương vụ để đời này George Soros quyết định “rửa tay gác kiếm”, nói lời giã biệt với những biến động không ngừng và khắc nghiệt của phố Wall.

Tuy có vấp váp thất bại nhưng có thể nói những thương vụ thành công của Soros đã tạo ra những khoản tài chính dồi dào đủ lấp đầy nhiều lần lỗ hồng tài chính của những lần thất bại. Vậy nên ông vẫn rất trung thành với quan điểm đầu tư của mình: “Bạn có thể quyết định đúng hay sai. Điều đó không quan trọng. Quan trọng nhất là bao nhiêu tiền sẽ được và mất từ những quyết định đó”.

Cách làm của Soros có thể được coi là phương thức đầu tư của một người theo trường phái phân tích kỹ thuật (tecknical analysis) điển hình: “Thị trường tiền tệ phụ thuộc vào người mua và người bán. Và họ thường hành động theo cảm tính”.

George Soros cố gắng hiểu được hướng đi của số đông nhưng ông cũng biết tạo ra những hướng đi riêng và rồi kéo mọi người đi theo.

Lọc lõi và ranh ma trên thương trường nhưng trong đời sống, George Soros luôn được mọi người kính trọng bởi những hoạt động từ thiện và những đóng góp to lớn của ông vì một xã hội tốt đẹp hơn. Ông đáng kể là nhà đầu cơ vĩ đại bậc nhất thế giới.

dễ dàng học các kỹ năng căn bản tại kynangcanban.blogspot.com


Hiếm có NTK mốt nào gây nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của người phụ nữ hiện đại như Coco Chanel. Người phụ nữ sắc sảo, đầy nghị lực và đa tình này chọn cuộc sống độc thân, luôn luôn thêu dệt các bức tranh huyền thoại về cuộc sống riêng tư của bản thân. Coco Chanel đặt tên cho thương hiệu thời trang xa hoa nổi tiếng, tuy bản thân bà không giữ quyền sở hữu thương hiệu mang tên mình.

Gabrielle "Coco" Bonheur Chanel sinh năm 1883 tại Saumur, Pháp. Mồ côi mẹ năm 12 tuổi và được cha đưa vào trại trẻ mồ côi. Người ta cho rằng cuộc sống trong cô nhi viện đã tạo cho bà tính cách mạnh mẽ, thẳng thắn pha lẫn với vẻ nổi loạn. Tuy vậy, Chanel luôn tìm cách che dấu sự thật về thời thơ ấu của mình.

Năm 18 tuổi, Coco Chanel rời cô nhi viện, bà đến Moulins và trở thành ca sĩ phòng trà. Bà có được biệt danh Coco cũng trong thời kỳ này.

Năm 1908, bà mở tiệm thiết kế mũ tại căn hộ của người tình là Étienne Balsan ở số 160 đại lộ Malesherbes, Paris.

Năm 1910, bà gặp Arthur "Boy" Capel và mở cửa hàng thời trang Chanel Modes ở số 21 phố Cambon, sau đó được mở rộng sang số 27, 29 và 31. Những diễn viên hàng đầu  Lucienne Roger và Gabrielle Dorziat rất ưa chuộng những chiếc mũ do Coco Chanel thiết kế.

Năm 1913, Coco Chanel mở boutique đầu tiên ở Deauville - khu vực nghỉ mát của giới thượng lưu Pháp. Người ta nhìn thấy bà đeo bông hoa trà màu trắng – sau này trở thành motif biểu tượng của thương hiệu.

Năm 1915, Coco Chanel tiếp tục mở boutique ở Biarritz. Ảnh hưởng bởi trang phục của Boy, bà giới thiệu nhiều thiết kế mới lạ - từ kiểu dáng khỏe khoắn đến chất liệu dệt kim jersey vốn được làm để may đồ lót cho nam giới thời bấy giờ. Trang phục của Coco Chanel phản ánh những thay đổi sâu sắc trong xã hội phương Tây đầu thế kỷ 20.

Coco Chanel giới thiệu BST thời trang cao cấp haute couture lần đầu tiên vào mùa thu năm 1916.

Năm 1917, NTK tiếp tục thách thức dư luận với mái tóc cắt ngắn, thả tự do, trái với thuần phong mỹ tục đương thời.

Năm 1919, Coco Chanel chính thức mở cửa hiệu thời trang cao cấp ở số 31 phố Cambon, Paris. Bà giới thiệu mẫu váy ren đính cườm và áo choàng không tay vải nhung the đen có gắn lông đà điểu.

Năm 1921, nước hoa Chanel No. 5 huyền thoại do nhà pha chế nước hoa Ernest Beaux ra đời đánh dấu sự xuất hiện của dòng nước hoa trừu tượng. Thay vì mô phỏng mùi hương tự nhiên, Coco Chanel muốn nước hoa đầu tiên của mình gợi cảm tưởng về mùi thơm của phụ nữ. Chanel No. 5 mở đầu thời kỳ của nước hoa hiện đại với mùi hương pha trộn các chất liệu thiên nhiên và nhân tạo. Đồng thời, mẫu thiết kế chai nước hoa có hình hộp đơn giản theo trường phái hiện đại cũng do Coco Chanel thiết kế. Bà chọn Chanel No 5. cho chính bản thân và cho rằng "Người phụ nữ không dùng nước hoa thì không có tương lai".

Cùng năm đó, logo hai chữ C được giới thiệu. Justine Picardie - nhà viết tiểu sử về Coco Chanel cho rằng motif trang trí kiến trúc tại cô nhi viện từ thời niên thiếu của NTK chính là hình mẫu cho logo nổi tiếng.

Tháng 12 năm 1922, Coco Chanel thiết kế trang phục cho vở kịch "Antigone" của Sophocles do Jean Cocteau chuyển thể. Cùng năm đó, nước hoa Chanel No. 22 được ra mắt.

Năm 1924, Pierre Wertheimer - theo một số người là tình nhân của Coco Chanel, trở thành đối tác chính của nhà mốt Chanel, sở hữu 70% thương hiệu. Théophile Bader (người sáng lập siêu thị Galeries Lafayettes) nắm 20%. Coco Chanel có 10%. Trong vòng 50 năm sau, dòng họ Wertheimer tiếp tục thu mua cổ phần nắm quyền kiểm soát thương hiệu. NTK giới thiệu trang sức thời trang gồm vòng cổ ngọc trai nhân tạo đã gây tiếng vang mạnh mẽ và sau này trở thành nét đặc trưng của Chanel.

Năm 1926, Vogue Mĩ tán dương "chiếc váy đen nhỏ Little Black Dress sẽ là trang phục của mọi phụ nữ". LBD đi vào kinh điển cùng cô nàng sành điệu Holly Golightly (do Audrey Hepburn thủ vai) trong phim Breakfast at Tiffany’s.

Năm 1928, trang phục bằng vải tweed - chất vải dành cho đàn ông Anh quốc được giới thiệu. Đây được coi là ảnh hưởng của công tước Duke of Westminster - người tình thời bấy giờ của Coco Chanel.

Tháng 11 năm 1932, cùng với nghệ sĩ Paul Iribe, bà cho ra mắt BST nữ trang bằng bạch kim Bijoux de Diamants.

Năm 1933, hình ảnh bông hoa trà màu trắng chính thức xuất hiện trên các trang phục màu đen của thương hiệu và sau này trở thành biểu tượng của Chanel. Cuốn tiểu thuyết Trà Hoa Nữ cũng chính là cuốn sách "gối đầu giường" của NTK.

Phong cách Chanel trở thành điển hình cho thời trang thế giới trong thập kỷ 1920 -1930. Cho đến năm 1935, thương hiệu có hệ thống phân xưởng với hơn 4.000 công nhân và mỗi năm xuất xưởng hơn 28.000 trang phục.

Năm 1939, sau khi Paul Iribe, người đàn ông có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn nhất cuộc đời Coco Chanel qua đời, bà gần như suy sụp hoàn toàn. Khi Thế chiến thứ hai nổ ra, bà đình chỉ việc thiết kế và kinh doanh thời trang, chỉ giữ lại cửa hàng số 31 phố Cambon để bán phụ kiện và nước hoa. Coco Chanel thuê phòng tại khách sạn Ritz ở Paris trong suốt thời gian Đức quốc xã chiếm đóng Paris. Cuộc tình với viên sĩ quan phát xít trẻ Hans Gunther von Dinklage đã buộc Coco Chanel phải rời Pháp đến Thụy sĩ sinh sống và gây nhiều tai tiếng khác cho NTK sau khi chiến tranh kết thúc.

Năm 1953, khi được hỏi "mặc" gì mỗi khi đi ngủ, Marilyn Monroe đã trả lời "tất nhiên là Chanel No.5".

Ngày 5 tháng 2 năm 1954, ở tuổi 71, Coco Chanel trở lại thời trang Paris với sự hỗ trợ của Jacques Wertheimer, đồng thời nhượng lại cho ông hoàn toàn quyền sở hữu thương hiệu mang tên mình. Đây là lúc Christian Dior thống trị thời trang Paris với phong cách "New Look" lãng mạn. Trang phục của Coco Chanel không khác nhiều so với thời trước chiến tranh - đơn giản, tiện dụng nhưng không kém phần thanh lịch - tuy không thuyết phục được giới phê bình thời trang Paris, nhưng hoàn toàn chinh phục những khách hàng giàu có bên kia Đại Tây Dương.

Mẫu áo "a little black jacket", áo vét đen dáng cardigan có dây xích viền gấu áo giữ dáng của Chanel được giới thiệu năm 1954 và nhanh chóng trở thành trang phục của giới phụ nữ thành đạt.

Năm 1955, nước hoa cho nam giới đầu tiên Chanel Pour Monsieur ra mắt. Túi xách 2.55 nổi tiếng với quai đeo bằng dây xích ra đời tháng 2 năm 1955. Coco Chanel đã từng nói: "Tôi biết phụ nữ thích gì. Hãy mang cho họ những dây xích. Phụ nữ tôn sùng những sợi dây xích". 

Năm 1957, mẫu giày màu beige (làm cho đôi chân có vẻ dài hơn) và mũi đen ra mắt. Ngoài ra, chi tiết tết sợi (braid) đặc trưng của thương hiệu bắt đầu được dùng để viền áo jacket vải tweed.

Năm 1959, nước hoa Chanel No. 5 được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại (Museum of Modern Art) ở New York và sau đó nằm trong BST thường trực của bảo tàng.

Năm 1970, nước hoa Chanel No. 19 ra đời kỷ niệm ngày sinh nhật của NTK.

Tháng 1 năm 1971, Gabrielle Coco Chanel mất tại khách sạn Ritz, Paris, thọ 87 tuổi. Bà được chôn cất tại Lausanne, Thụy Sĩ.

Năm 1978, dòng sản phẩm may sẵn Chanel ready-to-wear do Philippe Guibourgé thiết kế ra mắt. Bắt đầu từ năm đó, hàng loạt cửa hàng Chanel được khai trương tại Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Á.

Tháng 9 năm 1982, Karl Lagerfeld được mời làm NTK thời trang haute couture cho Chanel.

Tháng 10, các NTK Léger, Marianne Oudin và Eva Campocasso (cộng sự cũ của Karl Lagerfeld) giới thiệu BST thời trang may sẵn với những chiếc váy ngắn trên đầu gối phá vỡ nguyên tắc bất di bất dịch của Coco Chanel.

Năm 1983, Karl Lagerfeld trình diễn BST haute couture đầu tiên cho thương hiệu. Tháng 10, BST thời trang may sẵn do ông thiết kế ra mắt tại Paris.

Năm 1985, nghệ sĩ Andy Warhol thiết kế tranh cổ động quảng cáo cho Chanel No. 5 theo trường phái Pop Art. Tháng 9 cùng năm đó, nước hoa Coco ra mắt.

Năm 1987, BST đồng hồ Première lấy cảm hứng từ hình dáng chai nước hoa Chanel No. 5 được giới thiệu tại cửa hàng Chanel trên đại lộ Montaigne. Karl Lagerfeld bắt đầu tự chụp ảnh cho những chiến dịch quảng cáo của Chanel.

Năm 1988, Karl Lagerfeld cùng thương hiệu Chanel giành giải thưởng đặc biệt của Hiệp hội Thiết kế Thời trang Hoa Kỳ CFDA.


Tháng 2 năm 1996, tạp chí WWD ước tính doanh thu hàng năm của nước hoa Chanel No. 5 là 50 triệu USD chỉ riêng tại thị trường Mỹ. Tháng 6, siêu mẫu quý tộc Anh với vẻ đẹp phi giới tính Stella Tennant ký hợp đồng độc quyền với Chanel, thay thế Claudia Schiffer trở thành nàng thơ của Karl Lagerfeld.

Năm 1997, thương hiệu bắt đầu thành lập công ty Paraffection, hội tụ bảy xưởng thời trang Ateliers d’Art lâu đời của Paris với những người thợ lành nghề: Lesage (thêu), Lemarié (lông vũ và hoa trà), Massaro (giày), Desrues (đồ nữ trang, khuy), Guillet (hoa vải), Goossens (đồ kim hoàn), and Michel (mũ).

Tháng 6 năm 1999, Coco Chanel là NTK thời trang duy nhất có tên trong danh sách "100 người có ảnh hưởng nhất của Thế kỷ 20" của tạp chí Time.

Năm 2000, đồng hồ J12 Chromatic cao cấp có vỏ bằng gốm sứ và titan ra mắt. Tháng 10, BST trang phục thể thao lần đầu được giới thiệu.

Năm 2001, Kate Moss là gương mặt quảng cáo nước hoa Coco Mademoiselle, phiên bản mới, trẻ trung đầy khêu gợi của Coco.

Năm 2002, BST mang tên Métiers d’Art lần đầu ra mắt tại Paris. Đây là dòng thời trang tôn vinh các nghệ nhân thủ công của Paris và cao cấp hơn dòng thời trang may sẵn.

Tháng 11 năm 2004, nữ diễn viên Nicole Kidman xuất hiện trong phim ngắn "Chanel No. 5: The Film" do Baz Luhrmann đạo diễn (đạo diễn phim “Moulin Rouge!”).

Năm 2007, nữ diễn viên người Anh Keira Knightley thay thế Kate Moss quảng cáo cho nước hoa Coco Mademoiselle.

Chanel Mobil Art Pavilion - phòng triển lãm nghệ thuật di động do kiến trúc sư Zaha Hadid thiết kế mở cửa tại Hongkong năm 2008, khởi đầu chuyến công du đến New York và Tokyo. Cảm hứng cho KTS nổi tiếng xây dựng công trình kiến trúc có vẻ đẹp vĩ lai và công nghệ hiện đại này chính là túi xách 2.55 của Chanel.

Tháng 4 năm 2008, chiếc áo jacket cổ điển của Chanel nằm trong danh sách "100 thiết kế" của tạp chí Time.

Tháng 4 năm 2011, Chanel khai trương ở Việt Nam, tại khách sạn Rex, Tp. Hồ Chí Minh. Tháng 9, Karl Lagerfeld giới thiệu mẫu túi mới với tên Chanel Boy - đặt tên theo Boy Capel, tình yêu vĩ đại của Coco Chanel.

Tháng 3 năm 2012, triển lãm giới thiệu sách ảnh "The Little Black Jacket: Chanel’s classic revisited by Karl Lagerfeld and Carine Roitfeld" khai mạc tại Tokyo và sau đó, New York, Hongkong, Taipei, London. NTK cùng bà stylist nổi tiếng chụp 113 nhân vật nổi tiếng cả nam lẫn nữ, trong đó có Sarah Jessica Parker, Vanessa Paradis, Alice Dellal, Kanye West và Yoko Ono, mặc áo vét đen cổ điển của Chanel.

dễ dàng học các kỹ năng căn bản tại kynangcanban.blogspot.com